English EN Vietnamese VI

084 86 084 84

Đăng ký kinh doanh

084 89 084 84

Dịch vụ kế toán

hotro@ketoanqueen.vn

Liên hệ với chúng tôi

Vụ án có thật [1] – Không đăng ký kết hôn có ly hôn được không?

VỤ ÁN CÓ THẬT [1] – KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN CÓ LY HÔN ĐƯỢC KHÔNG?

I. NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 5/4/2022, tại phiên tòa Bà T trình bày:

Bà T và ông H tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1996 đến nay chưa đăng ký kết hôn. Từ khi chung sống như vợ chồng, bà T và ông H sống hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu mâu thuẫn, nguyên nhân do ông H có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác về đánh bà T và đập phá tài sản trong gia đình.

Việc mâu thuẫn giữa bà T và ông H hai bên gia đình đều biết và đã hòa giải nhiều lần, yêu cầu ông H chấm dứt ngoại tình về đoàn tụ với vợ con nhưng ông H không chấm dứt ngoại tình mà hiện nay ông H còn đang chung sống với người phụ nữ khác. Bà T và ông H đã không chung sống với nhau từ năm 2019 đến nay, phần ai nấy sống, không ai quan tâm đến ai.

Nay tình cảm giữa bà T với ông H không còn, nên Bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H.

Về con chung: Bà T và ông H có hai con chung là Đinh Thanh H, sinh năm 1997 và Đinh Thị B, sinh năm 2000. Hai con chung đều đã trưởng thành, đủ sức lao động. Hiện nay chị B đã có chồng con, anh H đi làm ăn tại thành phố Hồ Chí Minh, bà T không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 07/04/2022, tại phiên tòa bị đơn ông H trình bày:

Ông H và Bà T tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1996 đến nay chưa đăng ký kết hôn. Từ khi chung sống như vợ chồng, ông H và bà T sống hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu mâu thuẫn, nguyên nhân do hai vợ chồng không hợp nhau, không cùng quan điểm, thường xuyên mâu thuẫn cãi vã nhau. Việc mâu thuẫn giữa hai vợ chồng hai bên gia đình đều biết và đã hòa giải nhiều lần. Ông H và bà T đã không chung sống với nhau từ năm 2019 đến nay, phần ai nấy sống, không ai quan tâm đến ai.

Nay tình cảm vợ chồng không còn, nên ông H đồng ý ly hôn với Bà T.

Về con chung: Ông H và bà T có hai con chung là Thanh H, sinh năm 1997 và Đinh Thị B, sinh năm 2000. Hai con chung đều đã trưởng thành, chị B đã có chồng con, anh H đi làm ăn tại thành phố Hồ Chí Minh. Ông H không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về tài sản chung: Ông H không yêu cầu Tòa giải quyết.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:

Theo chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày tại phiên tòa có cơ sở xác định bà T, ông H đã ly thân, hiện nay tình cảm giữa bà T, ông H không còn. Cuộc sống chung của bà T và ông H thường hay xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau. Nay cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên bà T làm đơn muốn ly hôn với ông H, và ông H cũng đồng ý ly hôn với bà T.

Mặc dù đã được động viên thuyết phục để ông H, bà T về chung sống với nhau để làm ăn xây dựng gia đình và tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng bà Tăm, ông Hiền không đồng ý quay lại chung sống với nhau. Ông H và Bà T vẫn giữ nguyên quan điểm không quay lại sống chung và yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Do vậy, đề nghị HĐXX căn cứ theo quy định tại Điều 9, Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật HNGD năm 2014 tuyên không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông H và Bà T.

Ý kiến của Đại diện của Viện kiểm sát:

Ý kiến về việc trình tự thủ tục tố tụng dân sự: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các điều 9, 14, 51, 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ Bà T và ông H là vợ  chồng; về con chung: là Thanh H, sinh năm 1997 và Đinh Thị B, sinh năm 2000. Hai con chung đều đã trưởng thành, chị B đã có chồng con, anh H đi làm ăn tại thành phố Hồ Chí Minh. Ông H, bà T không yêu cầu Tòa giải quyết; về tài sản chung, nợ chung, các đương sự không yêu cầu nên không xem xét; Về án phí dân sự, miễn cho bà T theo quy định.

II. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

1. Về tố tụng:

Tại thời điểm Bà T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông H thì ông H đang cư trú tại thôn D, xã L, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Do đó, Tòa án nhân dân huyện M thụ lý vụ án “Ly hôn” theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà T là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bà Bùi Thị Thuyết A, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Ngãi, là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và đã gửi bản luận cứ. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Về nội dung:

Một là, Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn Bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với bị đơn ông H, ông H đồng ý ly hôn với bà T nhưng bà T và ông H chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1996 đến nay, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn là vi phạm tại điều 9 luật Hôn nhân và gia đình.

Hai là, Căn cứ lời khai của nguyên đơn Bà T và bị đơn ông H và các tài liệu chứng cứ nguyên đơn, bị đơn đã cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, có căn cứ xác định: Vào năm 1996, bà T và ông H tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng. Từ năm 2019, bà Tăm cho rằng ông H có quan hệ ngoại tình nên giữa bà T và ông H xảy ra mâu thuẫn, phần ai nấy sống, không ai quan tâm, không ai chăm sóc cho ai, tình cảm giữa bà T và ông H không còn nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông H, ông H cũng đồng ý ly hôn với bà T nhưng do bà T và ông H chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1996 đến nay, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn, nên hôn nhân giữa bà T và ông H không có giá trị pháp lý và không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử không giải quyết ly hôn cho các đương sự, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông H là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Ba là, Về con chung: Bà T và ông H có hai con chung là Thanh H, sinh năm 1997 và Đinh Thị B, sinh năm 2000. Hai con chung đều đã trưởng thành, đủ sức lao động, chị B đã có chồng con, anh H đi làm ăn tại thành phố Hồ Chí Minh. Bà T, ông H không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bốn là, Về tài sản chung: Bà T và ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

3. Về án phí:

Bà T được miễn án phí dân sự sơ thẩm do Bà T là người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định tại theo quy định tại điểm đ, khoản 1, điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

III. VIDEOS

IV. BẢN ÁN ĐẦY ĐỦ

>>> Tải về

Để được Kế toán Queen tư vấn chi tiết về dịch vụ
Quý khách vui lòng liên hệ số điện thoại 084.86.084.84 gặp Huỳnh Hiệp
hoặc gửi email qua địa chỉ hotro@ketoanqueen.vn

Đánh giá bài viết:
5/5

Related Posts

error: Content is protected !!